Tình hình kinh tế xã hội ngày nay ngày càng phát triển, sự xuất hiện đột ngột của dịch bệnh Covid-19 làm nền kinh tế có sự biến động không hề nhỏ thì việc các nhà máy, công ty vỡ nợ buộc đóng cửa là việc không tránh khỏi. Vậy thì công viên viên chức, người lao động (NLĐ) sẽ có những quyền lời như thế nào khi bị mất việc, nó được xử lý thông qua hợp đồng lao động (HĐLĐ) mà 2 bên ký với nhau ngay khi hợp tác. Vì thế để tìm hiểu kĩ hơn về cách thực hiện HĐLĐ như thế nào cũng như tại sao lại xảy ra việc chấm dứt hợp đồng , ai là người có quyền chấm dứt HĐLĐ, quyền và nghĩa vụ của các bên như thế nào khi HĐLĐ chấm dứt và hậu quả pháp lí xảy ra.
Tình hình kinh tế xã hội ngày nay ngày càng phát triển, sự xuất hiện đột ngột của dịch bệnh Covid-19 làm nền kinh tế có sự biến động không hề nhỏ thì việc các nhà máy, công ty vỡ nợ buộc đóng cửa là việc không tránh khỏi. Vậy thì công viên viên chức, người lao động (NLĐ) sẽ có những quyền lời như thế nào khi bị mất việc, nó được xử lý thông qua hợp đồng lao động (HĐLĐ) mà 2 bên ký với nhau ngay khi hợp tác. Vì thế để tìm hiểu kĩ hơn về cách thực hiện HĐLĐ như thế nào cũng như tại sao lại xảy ra việc chấm dứt hợp đồng , ai là người có quyền chấm dứt HĐLĐ, quyền và nghĩa vụ của các bên như thế nào khi HĐLĐ chấm dứt và hậu quả pháp lí xảy ra.
Theo điều 34 BLLĐ số 45/2019/QH14 quy định có 13 trường hợp được chấm dứt HĐLĐ theo quy định của pháp luật. Đây là những trường hợp mà cả 2 bên đều có quyền chấm dứt hợp đồng khi tới thời hạn mà không cần phải thực hiện thêm bất cứ điều khoản nào để chấm dứt hợp đồng. BLLĐ năm 2019 đã bổ sung thêm quy định cụ thể đối với chủ thể nước ngoài làm việc và sinh sống tại Việt Nam, bộ luật có thêm trường hợp thảo thuận thử việc cũng như loại bỏ trường hợp NLĐ đủ điều kiện về thời gian đóng BHXH và tuổi hưởng lương hưu trong trường hợp đương nhiên chấm dứt HĐLĐ so với khoản 4 điều 36 BLLĐ số 10/2012/QH13.
Các trường hợp chấm dứt HĐLĐ trên đều do các nguyên nhân khách quan mà hợp đồng không thể tiếp tục như bị xa thải do vi phạm kỷ luật hay các bên chủ thể khi hết HĐLĐ cũ không muốn tiếp tục HĐLĐ mới với nhau.
Đời sống kinh tế xã hội phát triển, khái niệm hợp đồng lao động không còn quá xa lạ với mọi người. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều trường hợp thiếu hiểu biết về hợp đồng lao động gây ra những thiệt hại đáng kể đặc biệt là cho người lao động - những người thường yếu thế hơn so với người sử dụng lao động. Hợp đồng lao động có vai rò rất quan trọng. Thông qua hợp đồng lao động, quyền và nghĩa vụ giữa người lao động và người sử dụng lao động được thiết lập, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp (nếu có). Ngoài ra hợp đồng lao động cũng là một trong những hình thức pháp lí nhất để công dân thực hiện quyền làm chủ của mình, thể hiện qua việc tự do lựa chọn công việc, chỗ làm, mức lương phù hợp. Nhà nước dựa vào hợp đồng lao động để quản lí nhân lực đang làm việc tại các công ty, cơ sở sản suất. Xuất phát từ vai trò quan trọng của hợp đồng lao động, chúng em lựa chọn đề tài này để tìm hiểu và nghiên cứu để có cái nhìn sâu sắc, hiểu biết rõ hơn về hợp đồng lao động. Trước hết là học tập tốt môn pháp luật đại cương, rồi tích lũy kiến thức cho học tập nghiên cứu và công việc sau này. Tiểu Luận chi tiết, dễ hiểu về hợp động lao động. Quan trong là có phần ưu nhược điểm, tình hình hiểu biết, vận dụng hợp đồng lao động ở nước ta hiện nay
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hợp đồng Lao Động (Tiểu Luận Môn Pháp Luật Đại Cương), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT KINH TẾ BỘ MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG -----&----- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: “HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG” Giảng viên: Cô Nguyễn Thị Hằng. Nhóm thực hiện: Họ và Tên Lớp MSSV Hoàng Hương Giang 71 31101023865 Nguyễn Thụy Du 71 31101023889 Văn Tường Vi 71 31101023854 Hồ Yến Ly 70 31101023820 Đỗ Trọng Bửu 71 31101023884 Phan Thanh Chiến 71 31101023874 Dương Thị Kim Trang 71 31101023858 Tp Hồ Chí Minh, Tháng 11 năm 2010. Phân chia công việc để hoàn thành tiểu luận: Lời nói đầu Nguyễn Thụy Du Chương I: Mục I.1 Nguyễn Thụy Du Mục I.2 Văn Tường Vi Mục I.3 Đỗ Trọng Bửu Mục I.4 Dương Thị Kim Trang Mục I.5 Dương Thị Kim Trang, Phan Thanh Chiến Chương II Hồ Yến Ly Hoàng Hương Giang ( Nhóm trưởng ). Kết luận Nguyễn Thụy Du Lời nói đầu Đời sống kinh tế xã hội phát triển, khái niệm hợp đồng lao động không còn quá xa lạ với mọi người. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều trường hợp thiếu hiểu biết về hợp đồng lao động gây ra những thiệt hại đáng kể đặc biệt là cho người lao động - những người thường yếu thế hơn so với người sử dụng lao động. Hợp đồng lao động có vai rò rất quan trọng. Thông qua hợp đồng lao động, quyền và nghĩa vụ giữa người lao động và người sử dụng lao động được thiết lập, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp (nếu có). Ngoài ra hợp đồng lao động cũng là một trong những hình thức pháp lí nhất để công dân thực hiện quyền làm chủ của mình, thể hiện qua việc tự do lựa chọn công việc, chỗ làm, mức lương phù hợp. Nhà nước dựa vào hợp đồng lao động để quản lí nhân lực đang làm việc tại các công ty, cơ sở sản suất. Xuất phát từ vai trò quan trọng của hợp đồng lao động, chúng em lựa chọn đề tài này để tìm hiểu và nghiên cứu để có cái nhìn sâu sắc, hiểu biết rõ hơn về hợp đồng lao động. Trước hết là học tập tốt môn pháp luật đại cương, rồi tích lũy kiến thức cho học tập nghiên cứu và công việc sau này. Đây là bài tiểu luận đầu tiên, chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót , vì vậy chúng em rất mong được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô và các bạn. Qua đó chúng em có thể sữa chữa những sai sót, bổ sung thêm kiến thức và kinh nghiệm, từ đó có một cái nhìn sâu sắc, rõ ràng hơn nữa về hợp đồng lao động. Chúng em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Hằng khoa luật kinh tế trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ chúng em tìm hiểu môn Pháp Luật Đại Cương và thực hiện đề tài tiểu luận này. Tp Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2010. Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG I.1 Khái niệm về hợp đồng lao động Theo điều 26- bộ luật lao động: Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, bao gồm các điều khoản về việc làm, tiền công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Hợp đồng lao động được kí kết trực tiếp giữa người sử dụng lao động với người lao động bằng văn bản hoặc thỏa thuận miệng (đối với những công việc có tính tạm thời mà thời hạn dưới 3 tháng hoặc đối với lao động giúp việc nhà) Như vậy ta thấy một hợp đồng lao động được cấu thành bởi ba yêu tố: - Có sự cung ứng một công việc. - Có sự trả công lao động ( tiền lương.....) - Có sự phụ thuộc lao động giữa người lao động và người sử sụng lao động về mặt pháp lí. I.2 Nội dung, hình thức, các loại hợp đồng lao động I.2.1 Nội dung Hợp đồng phải có những nội dung chủ yếu như: công việc phải làm, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương; địa điểm là việc, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động,bảo hiểm xã hội; thời hạn hợp đồng. Nội dung của hợp đồng lao động phải không trái với các quy định của pháp luật lao động, không hạn chế quyền lợi của người lao động, không được trái với thỏa ước lao động tập thể. Hợp đồng lao động áp dụng cho các đối tượng người làm công ăn lương trong nhiều đơn vị sử dụng lao động khác nhau(trong các đơn vị kinh tế, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước….) I.2.2 Hình thức hợp đồng lao động Hình thức của hợp đồng lao động, có thể kí kết hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc thỏa thuận miệng. Việc giao kết hợp đồng miệng chỉ được áp dụng với trường hợp hợp đồng có thời hạn dưới ba tháng hoặc đối với lao động giúp việc nhà I.2.3 Các loại hợp đồng lao động Hợp đồng lao động có thể giao kết một trong các loại sau: Hợp động lao động không xác định thời hạn (là loại hợp đồng mà hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng) Hợp đồng xác định thời hạn ( là loại hợp đồng mà hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm không dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng) Hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định mà thời hạn dưới 12 tháng. I.3 Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động Giao kết trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động. Giao kết với người được ủy quyền thay mặt cho nhóm người lao động Người lao động có thể tham gia giao kết một hoặc nhiều người sử dụng lao động nhưng phải đảm bảo thực hiện đầy đủ các công việc được giao kết. Công việc theo hợp đồng lao động phải do người giao kết thực hiện, không giao cho người khác, nếu không có sự đồng ý của người sử dụng lao động. I.4 Thực hiện, thay đổi, tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng lao động I.4.1 Thực hiện hợp đồng lao động Thực hiện hợp đồng lao động là việc các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản là : phải thực hiện đúng các điều khoản đã cam kết trên phương diện bình đẳng và phải tạo ra những điều kiện cần thiết để bên kia có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. I.4.2 Thay đổi hợp đồng lao động Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động, các bên có thể thay đổi các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận khi thấy cần thiết nhưng phải đảm bảo nghĩa vụ báo trước và cùng thỏa thuận, sửa đổi, bổ sung hoặc giao kết hợp đồng lao động mới. Nếu bên nào có yêu cầu thay đổi nội dung hợp đồng thì phải báo cho bên kia biết trước ít nhất ba ngày . I.4.3 Tạm hoãn hợp đồng lao động Theo quy định của pháp luật hoặc do thỏa thuận giữa các bên, việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng lao động của người lao động có thể tạm ngừng trong một thời gian nhất định mà hợp đồng không bị hủy bỏ hoặc mất hiệu lực. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hợp đồng lao động được tạm hoãn thực hiện trong các trường hợp sau đây : a) Người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự hoặc các nghĩa vụ công dân khác do pháp luật quy định; b) Người lao động bị tạm giữ, tạm giam; c) Các trường hợp khác do hai bên thỏa thuận. Hết thời gian tạm hoãn hợp đồng đối với các trường hợp quy định tại điểm a và điểm c, người lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc. Việc nhận lại người lao động bị tạm giữ,tạm giam khi hết thời gian tạm hoãn hợp đồng lao động do Chính phủ quy định. I.4.4 Chấm dứt hợp đồng lao động Chấm dứt hợp đồng lao động là việc chấm dứt việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Hợp đồng lao động chấm dứt trong các trường hợp sau: Hết hạn hợp đồng Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng Người lao động bi kết án tù giam hoặc bị cấm làm công việc cũ theo quyết định của tòa án Người lao động chết, mất tích theo tuyên bố của tòa án Ngoài ra người lao động và người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng chỉ hợp pháp khi thỏa mãn các trường hợp luật định và đảm bảo thời hạn báo trước cho bên kia. Người đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm theo luật định, cụ thể là : Trong trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì phải nhận người lao động trở lại làm công việc theo hợp đồng đã kí và phải bồi thường thiệt hại một khoản tiền tương ứng với tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) trong những ngày người lao động không được làm việc công với ít nhất 2 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) Trong trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương và phụ cấp tiền lương (nếu có) và phải bồi thường chi phí đào tạo(nếu có) theo quy định. I.5 Hợp đồng lao động có yếu tố nước ngoài I.5.1 Công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài Theo Điều 134,135 của Quốc hội khóa XI, kì họp thứ 10, số 72/2006/QH 11 ngày 29/11/2006 quy định: Người lao động là công dân Việt Nam được phép đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động mà người đó chịu sự điều hành của tổ chức, cá nhân nước ngoài , thì phải tuân theo các quy định của pháp luật nước sở tại; nếu theo hợp định về hợp tác lao động được kí kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước sở tại thì phải tuân theo các quy định của pháp luật nước sở tại và hiệp định đó. Đối với người lao động là công nhân Việt Nam được phép đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức nhận thầu, khoán công trình do doanh nghiệp Việt Nam điều hành và trả lương, thì áp dụng các quy định của bộ luật này, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thẩm quyền được biết các quyền lợi và nghĩa vụ của mình, được các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ở nước ngoài bảo hộ về mặt lãnh sự và tư pháp, được hưởng quyền chuyển thu nhập bằng ngoại tệ và tài sản cá nhân về nước, được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và các chính sách, chế độ khác theo quy định pháp luật của Việt Nam và nước sở tại. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có nghĩa vụ đóng góp một phần tiền lương cho quỹ bảo hiểm xã hội. I.5.2 Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam Theo quy định tại Nghị định của Chính phủ số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải có đủ các điều kiện sau: Đủ 18 tuổi trở lên; Có sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc; Là nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc chuyên gia (đối với người nước ngoài xin vào hành nghề y, dược tư nhân; trực tiếp khám, chữa bệnh tại Việt Nam hoặc làm việc trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề phải có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam); Không có tiền án về tội vi phạm an ninh quốc gia; không thuộc diện đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự,đang chấp hành hình phạt hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài; Có giấy phép lao động do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp , trừ các trường hợp không phải cấp giấy phép lao động. Người nước ngoài lao động tại Việt Nam được hưởng các quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác. I.5.3 Công dân Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; tại các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế đóng trên lãnh thổ Việt Nam. Công dân Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; tại các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế đóng trên lãnh thổ Việt Nam đều thuộc phạm vi áp dụng của Bộ luật lao động và các quy định khác của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác. Do vậy việc kí kết và các vấn đề liên quan đến hợp đồng lao động cũng phải tuân thủ các quy định của Bộ luật lao động và các quy định khác của pháp luật Chương II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM II.1 KHÁI QUÁT CHUNG Gia nhập ngôi nhà WTO năm 2007, Việt Nam hội nhập quốc tế với ưu thế là một nước có nguồn nhân lực dồi dào (85.789.573 người – theo số liệu của Tổng Cục Dân số ngày 1.4.2009); trong đó lực lượng lao động trẻ chiếm tỷ lệ lớn. Tuy nhiên đến 85% lao động trẻ Việt Nam chưa qua đào tạo,nên tầm hiểu biết về pháp luật lao động nói chung và hợp đồng lao động nói riêng còn rất nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, xã hội Việt Nam tồn tại rất nhiều loại quan hệ lao động khác nhau, nhưng luật lao động Việt Nam chủ yếu chỉ điều chỉnh các quan hệ lao động xác lập trên cơ sở hợp đồng lao động. Chính vì thế việc áp dụng hợp đồng lao động trong đời sống người lao động còn nhiều sai sót,điều đó gây thiệt thòi lớn cho người lao động và người sử dụng lao động. Những sai sót phổ biến như: Nội dung hợp đồng lao đồng trái pháp luật (không am hiểu Pháp Luật nên đưa vào trong hợp đồng những nội dung trái pháp luật) – đây là trường hợp sai sót phổ biến nhất. Kĩ thuật soạn thảo hợp đồng lao động (sử dụng từ ngữ không rõ nghĩa,các nội dung điều khoản trong một hợp đồng nhưng lại mâu thuẫn nhau, sử dụng sai thuật ngữ,hợp đồng quá sơ sài,thiếu một số yếu tố quan trong như: dự đoán các tình huống xảy ra nên khó giải quyết được khi xảy ra vướng mắc……). Thiếu một số thủ tục bắt buộc(thiếu sự công chứng,giám định về mặt Pháp Luật của cơ quan nhà nước) Sai sót về năng lực giao kết hợp đồng lao động(nhầm lẫn về quyền được kí hợp đồng lao động). Sai sót về người đại diện kí hợp đồng lao động(người đứng ra kí hợp đồng lao động phải là người đại diện về mặt pháp lý của công ty,nếu trường hợp kí hợp đồng liên quan đến hơn 30% tài sản của công ty thì phải được sự đồng ý của hội đồng quản trị). II.2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG HIỆN NAY II.2.1 Đối với người lao động Nhìn chung thực trạng hiện nay là người lao động vẫn chưa thực hiện đầy đủ Pháp Luật về giao kết hợp đồng lao động. Những trường hợp cụ thể như: Người lao động có trình độ cao được doanh nghiệp đầu tư cho du học nước ngoài. Hay những thanh niên kí hợp đồng với các doanh nghiệp học nghề miễn phí và làm cho công ty trong một khoảng thời gian xác định.Nhưng sau khi hoàn thành chương trình đào tạo thì hủy bỏ hợp đồng lao động đã kí với doanh nghiệp này và làm việc cho doanh nghiệp khác với điều kiện tốt hơn. Đáng lẽ trong trường hợp này doanh nghiệp phải được bồi thường khoản tiền đào tạo. Nhưng theo điều.. thì người lao động không cần đền bù vẫn có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng Pháp Luật. Người lao động có trình độ thấp,chủ yếu tìm đến việc làm và tham gia vào quan hệ lao động là kiếm tiền. Họ phần lớn là những thanh niên ở vùng quê nghèo khó. Chính vì vậy bằng kiến thức ít ỏi ấy họ bị các doanh nghiệp lợi dụng không kí kết hợp đồng lao động,hay kí kết hợp đồng lao động sơ sài,... gây thiệt hại không nhỏ cho bản thân. Ví dụ: “Hăm hở nộp hồ sơ xin việc với vốn hiểu biết về luật lao động ở mức 0, các lao động trẻ dường như không biết rằng mình đang đi trên một con thuyền sóng gió mà không đem theo phao cứu sinh. Để rồi, chính sự thiếu hiểu biết đó đã khiến họ mất đi những quyền lợi đáng lẽ ra phải được hưởng. Hợp đồng lao động... bằng miệng?! Ra trường gần 2 năm mà vẫn không có việc làm, Minh Đức - sinh viên ĐHDL Phương Đông gần như quá mệt mỏi với những lần đi lại các trung tâm giới thiệu việc làm, mài mắt trên các tờ “Mua và Bán”. Thế cho nên, khi được nhận vào làm việc cho một doanh nghiệp tư nhân, anh đã không hề nghĩ đến việc mình có được kí hợp đồng lao động hay không. Và do không hiểu rõ về luật lao động, Đức cũng không cho rằng văn bản hợp đồng là một điều cần thiết đối với công việc của anh sau này.Đây là một trong nhiều trường hợp thường gặp ở trong môi trường có mối quan hệ giữa chủ lao động và người lao động trẻ. Chủ sử dụng lao động thường chỉ ký một dạng hợp đồng khoán việc. Mà theo đó, người lao động hưởng lương theo sản phẩm làm được, làm nhiều hưởng nhiều - làm ít hưởng ít. Vì là hợp đồng dân sự nên quyền lợi của người lao động ngoài số tiền công thì chẳng có gì.Như vậy, không ký hợp đồng lao động - người lao động đã tự bỏ qua một công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi của mình. ( Theo www.vietbao.vn). II.2.2 Đối với người sử dụng lao động Phần lớn người sử dụng lao động là người được đào tạo có trình độ, có tầm hiểu biết về Pháp Luật. Nhưng người sử dụng lao động vẫn không thực hiện đầy đủ trách nhiệm và ý thức Pháp Luật về giao kết hợp đồng lao động. Một số doanh nghiệp lợi dụng kẻ hở của Pháp Luật và sự thiếu hiểu biết về Pháp Luật của người lao động đã thực hiện giao kết hợp đồng lao động trái Pháp Luật: (không kí kết hợp đồng lao động, công nhân làm việc theo chế độ thuê mướn; hợp đồng sơ sài, lương ở dưới mức tối thiểu, cắt giảm các khoản bảo hiểm xã hội, thử việc quá thời gian quy định, chế độ thai sản, đau ốm, tai nạn lao động không được coi trọng) nhằm thu lợi cho doanh nghiệp. Ngược lại,trong lúc doanh nghiệp làm ăn khốn khó,nguồn vốn giảm ,phải thu hẹp sản xuất và kinh doanh để đảm bảo sự tồn tại. Nhưng doanh nghiệp lúc này vẫn phải trả đủ lương cho công nhân theo cam kết ở hợp đồng lao động. Dù có nhu cầu sa thải bớt công nhân nhưng theo luật thì không được từ đó dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. *Một số cơ quan có thẩm quyền Những hành vi trái pháp luật của người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia giao kết hợp đồng lao động gây ra những thiệt thòi không nhỏ cho bản thân họ nhưng đồng thời cũng có một phần trách nhiệm từ cơ quan tổ chức khác: Tổ chức công đoàn được thành lập nhưng chưa thực sự hoạt đồng hết mình để bảo về quyền lợi cho người lao động. Các cơ quan có thẩm quyền còn phân phối một lực lượng quá mỏng để theo dõi, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm. II.3 Đề xuất khắc phục Từ thực trạng trên ta thấy cả người lao động và người sử dụng lao động đều bị thiệt hại khi kí kết hợp đồng lao động. Từ đây chúng tôi xin đưa ra một số đề xuất khắc phục: Nâng cao trình độ dân trí, phổ biến nâng cao ý thức trách nhiệm về Pháp luật cho người dân,đưa pháp luật gần gũi với mọi người dân bằng nhiều hình thức (qua giáo dục, áp phích, các cuộc thi tìm hiểu Pháp Luật...). Từ đó người lao động và người sử dụng lao động có đầy đủ kiến thức kí kết hợp đồng lao động đúng pháp luật bảo vệ quyền lợi của đôi bên khi tham gia vào quan hệ lao động. Tăng cường hiệu quả hoạt động của Công đoàn đồng thời thành lập các cơ quan tư vấn Pháp luật cho người lao động nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động-lực lượng yếu thế trong các vụ tranh chấp hợp đồng lao động,tạo cho người lao động một môi trường lao động an toàn. Các cơ quan chức năng có thẩm quyền tăng cường kiểm tra, giám sát việc kí kết và thực hiện hợp đồng lao động của các doanh nghiệp. Từ đó phát hiện, xử lý kịp thời các sai phạm.Yêu cầu các doanh nghiệp phải công khai và minh bạch khi kí kết hợp đồng lao động. Cơ quan báo chí,ngôn luận và các phương tiện truyền hình cần quan tâm hơn đến vấn đề vi phạm hợp đồng lao động. Từ đó phổ biến rộng rãi cho mọi người cùng biết. Từ đó giúp giảm thiểu các trường hợp vi phạm về hợp đồng lao động. Quốc hội cần nắm bắt kịp thời sửa đổi và bổ sung các quy định chặt chẽ hơn nhằm hạn chế các trường hợp lách luật,lợi dụng sơ hở để thu lợi bất chính. Đồng thời đưa ra những chế tài mạnh hơn nhằm hạn chế tối đa các trường hợp vi phạm và tái phạm,từ đó giảm thiểu tối đa các cá nhân,tổ chức có ý định lợi dụng lỗ hổng pháp luật để làm giàu. Kết Luận Hợp đồng lao động nắm giữ vai trò rất quan trọng, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Thông qua hợp đồng lao động, quyền và nghĩa vụ giữa người lao động và người sử dụng lao động được thiết lập, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp (nếu có). Ngoài ra hợp đồng lao động cũng là một trong những hình thức pháp lí nhất để công dân thực hiện quyền làm chủ của mình khi tham gia vào quan hệ lao động. Việc kí kết và thực hiện hợp đồng lao động đều rất cần thiết đối với người lao động lẫn người sử dụng lao động. Mọi người cần tìm hiểu kĩ về các quy định của hợp đồng lao động. Sau đó xem xét rõ công việc, quyền lợi nghĩa vụ của mỗi bên được nêu ra trong hợp đồng lao động rồi mới đặt bút kí để chủ động bảo vệ quyền lợi mình. Vì trên thực tế, rất nhiều trường hợp thiếu hiểu biết về hợp đồng lao động, không xem xét cẩn thận hợp động khi kí kết dẫn đến các hậu quả đáng tiếc mà phần lớn là người lao động phải chịu thiệt. Hi vọng rằng, bài tiểu luận sẽ giúp các bạn hiểu thêm về hợp đồng lao động và vai trò quan trọng của nó. Dù đã cố gắng nhưng chắc rằng vẫn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được nhiều sự đóng góp ý kiến của cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn. TP Hồ Chí Minh, Tháng 11-2010. Danh mục tài liệu tham khảo: - Giáo trình: Pháp luật đại cương của khoa kinh tế- luật, đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh. -Trang wed www.tracuuphapluat.vn -Trang wed www.csdl.thutuchanhchinh.vn -Sách tìm hiểu nội dung bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tác giả: Hồ Ngọc Cẩn. Nxb lao động xã hội Mục Lục NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
Trong xã hội tồn tại rất nhiều mối quan hệ xã hội, trong đó quan hệ lao động là một trong những quan hệ không thể thiếu, nó chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nó không giống như những quan hệ hay các giao dịch khác, quan hệ lao động gắn bó gần như suốt cuộc đời mỗi con người. Đó là cơ sở để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển của mỗi người. Trong quan hệ lao động có rất nhiều quan hệ phức tạp đan xen lẫn nhau về công việc, tiền lương, thời gian làm việc, và các quyền và lợi ích khác giữa người lao động và người sử dụng lao động. Do đó, mâu thuẫn và tranh chấp sẽ không thể tránh khỏi. Tranh chấp lao động là một hiện tượng xã hội phát sinh trong lĩnh vực lao động. Giải quyết các tranh chấp lao động có ý nghĩa rất lớn, đảm bảo cho các quan hệ lao động diễn ra ổn định, quyền lợi của các bên trong quan hệ lao động được bảo vệ. Muốn quyền lợi của mình đuợc bảo vệ một cách tốt nhất, đương sự có quyền yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và toà án chỉ giải quyết các tranh chấp đó khi có đơn yêu cầu của đương sự. Các đương sự trong vụ án lao động có quyền tự mình hoặc mời luật sư để bảo vệ cho mình tại Toà án. đây cũng là cách bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất mà đương sự có quyền làm. Khi tham gia vào các vụ án lao động, Luật sư có thể được tham gia từ giai đoạn bắt đầu khởi kiện với tư cách là luật sư tư vấn và sau đó tham gia vào quá trình tố tụng của vụ án với tư cách là đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.Để làm được những điều nói trên đòi hỏi Luật sư phải nắm chắc những quy định của pháp luật pháp luật lao động cũng như pháp luật tố tụng và các kỹ năng cần thiết khi tham gia trong vụ án lao động. Một trong các yếu tố giúp cho Luật sư thực hiện nhiệm vụ của mình đạt kết quả cao nhất, bảo vệ quyền lợi cho đương sự được tối đa nhất, đó vẫn là vấn đề về kỹ năng của luật sư trong các vụ án Lao động. Chính vì lý do này mà chuyên đề cho bài tiểu luận kỳ này em chọn có tiêu đề là “ Kỹ năng của luật sư trong vụ án lao động - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” NỘI DUNG 1. Tranh chấp lao động và vai trò của luật sư trong các vụ án lao động 1.1 Tranh chấp lao động và việc giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án Tại diều 157 Bộ luật lao động quy định: “Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước tập thể và trong quá trình học nghề”. Tranh chấp lao động được chia thành tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể người lao động và người sử dụng lao động. Khoản 2 Điều 162 và khoản 3 Điều 168 Bộ luật lao động quy định cho Toà án thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Kỹ năng của luật sư trong vụ án lao động - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG.......................... KHOA……………………… Tiểu luận Kỹ năng của luật sư trong vụ án lao động - Những vấn đề lý luận và thực tiễn TRƯỜNG ………………….. Khoa…………………….. -----&----- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: TRƯỜNG ………………….. Khoa…………………….. -----&----- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: TRƯỜNG ………………….. Khoa…………………….. -----&----- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 1. Một số vấn đề về tranh chấp lao động và vai trò của luật sư trong các vụ án lao động 2 1.1 Tranh chấp lao động và việc giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án .2 1.2 Vai trò của Luật sư trong các vụ án lao động 3 2. Kỹ năng của luật sư trong các vụ án về lao động 3 2.1 Trong giai đoạn khởi kiện 3 2.2 Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử 5 2.3 Kỹ năng tham gia hoà giải 7 2.4 Tham gia phiên toà sơ thẩm 7 3. Kỹ năng của luật sư trong một số vụ án lao động điển hình 9 3.1 Kỹ năng trong vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động 9 3.2 Kỹ năng của luật sư trong vụ án về đòi bồi thường chi phí đào tạo 10 KẾT LUẬN TRƯỜNG ………………….. Khoa…………………….. -----&----- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: TRƯỜNG ………………….. Khoa…………………….. -----&----- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: TRƯỜNG ………………….. Khoa…………………….. -----&----- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: TRƯỜNG ………………….. Khoa…………………….. -----&----- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: LỜI MỞ ĐẦU Trong xã hội tồn tại rất nhiều mối quan hệ xã hội, trong đó quan hệ lao động là một trong những quan hệ không thể thiếu, nó chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nó không giống như những quan hệ hay các giao dịch khác, quan hệ lao động gắn bó gần như suốt cuộc đời mỗi con người. Đó là cơ sở để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển của mỗi người. Trong quan hệ lao động có rất nhiều quan hệ phức tạp đan xen lẫn nhau về công việc, tiền lương, thời gian làm việc, và các quyền và lợi ích khác giữa người lao động và người sử dụng lao động. Do đó, mâu thuẫn và tranh chấp sẽ không thể tránh khỏi. Tranh chấp lao động là một hiện tượng xã hội phát sinh trong lĩnh vực lao động. Giải quyết các tranh chấp lao động có ý nghĩa rất lớn, đảm bảo cho các quan hệ lao động diễn ra ổn định, quyền lợi của các bên trong quan hệ lao động được bảo vệ. Muốn quyền lợi của mình đuợc bảo vệ một cách tốt nhất, đương sự có quyền yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và toà án chỉ giải quyết các tranh chấp đó khi có đơn yêu cầu của đương sự. Các đương sự trong vụ án lao động có quyền tự mình hoặc mời luật sư để bảo vệ cho mình tại Toà án. đây cũng là cách bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất mà đương sự có quyền làm. Khi tham gia vào các vụ án lao động, Luật sư có thể được tham gia từ giai đoạn bắt đầu khởi kiện với tư cách là luật sư tư vấn và sau đó tham gia vào quá trình tố tụng của vụ án với tư cách là đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.Để làm được những điều nói trên đòi hỏi Luật sư phải nắm chắc những quy định của pháp luật pháp luật lao động cũng như pháp luật tố tụng và các kỹ năng cần thiết khi tham gia trong vụ án lao động. Một trong các yếu tố giúp cho Luật sư thực hiện nhiệm vụ của mình đạt kết quả cao nhất, bảo vệ quyền lợi cho đương sự được tối đa nhất, đó vẫn là vấn đề về kỹ năng của luật sư trong các vụ án Lao động. Chính vì lý do này mà chuyên đề cho bài tiểu luận kỳ này em chọn có tiêu đề là “ Kỹ năng của luật sư trong vụ án lao động - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” NỘI DUNG 1. Tranh chấp lao động và vai trò của luật sư trong các vụ án lao động 1.1 Tranh chấp lao động và việc giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án Tại diều 157 Bộ luật lao động quy định: “Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước tập thể và trong quá trình học nghề”. Tranh chấp lao động được chia thành tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể người lao động và người sử dụng lao động. Khoản 2 Điều 162 và khoản 3 Điều 168 Bộ luật lao động quy định cho Toà án thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể. Theo Điều 31 khoản 1 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 166 Bộ luật lao động thì Toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân sau: “ 1. Toà án nhân dân giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động hoà giải không thành hoặc Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động không giải quyết trong thời hạn quy định. 2. Toà án nhân dân giải quyết tranh chấp về lao động cá nhân sau đây mà không nhất thiết phải qua hoà giải tại cơ sở: a) Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng; b) Tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; c)Tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động; d) Tranh chấp về bảo hiểm xã hội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 151 Bộ luật này; đ) Tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu lao động.” Điều 172 Bộ luật lao động quy định quyền yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp lao động của tập thể lao động khi không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động. Và khoản 2 Điều 31 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “ 2. Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động bao gồm: a) Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và điều kiện lao động khác; b) Về thực hiện thoả ước lao động tập thể; c) Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn. 3. Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.” Khi có tranh chấp lao động xẩy ra, có yêu cầu toà án giải quyết và có sự giải quyết của toà án là cơ hội cho luật sư tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền và lời ích hợp pháp cho đương sự khi họ mời. 1.2 Vai trò của luật sư trong các vụ án về lao động. Xã hội ngày càng pháp triển, quyền lợi của người dân càng cần được bảo vệ đến mức tối đa nhất, do vậy mà vai trò của người luật sư ngày nay rất quan trọng Xét về bản chất các vụ án lao động có tính đặc thù riêng so với các vụ án dân sự khác, vai trò của luật sư cũng có một số điểm khác biệt. Vì án lao động liên quan đến chính sách xã hội, yếu tố kỹ thuật, công nghệ trong sản xuât. Mục đích của việc giải quyết tranh chấp lao động không chỉ để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tranh chấp mà còn duy trì quan hệ lao động có tranh chấp. Tham gia tư vấn một vụ án lao đồng ngay từ bước đầu tiên Luật sư phải những định hướng về các vấn đề liên quan đến pháp luật lao động, các chính sách của nhà nước về lao động, có như vậy đương sự mới có hướng đi đúng trong vụ kiện cuả mình. Khi tham gia vào vụ án, Luật sư là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự và có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án như: giúp đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, tham gia hoà giải, .... Vì vậy Luật sư cần phải làm hết khả năng của mình để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình. 2. Kỹ năng của luật sư trong các vụ án lao động 2.1 Trong giai đoạn khởi kiện Có những vụ án tiến hành hoà giải sẽ đem lại kết quả tốt nhưng có vụ án lại không như vậy, có những tranh chấp lao động lại phải qua hoà giải cơ sở trước khi khởi kiện ra Toà án, Tất cả những vấn đề đó, không phải đương sự nào cũng biết mà chỉ có Luật sư mới là người tư vấn, hướng dẫn cho khách hàng biết và thực hiện, đó là một trong những thủ tục để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho khách hàng của mình. Khi đương sự mời luật sư giúp đỡ thì trước hết luật sư phải giúp đương sự xác định mục đích kiện tức là khởi kiện để yêu cầu giải quyết vấn đề gì. Nếu yêu cầu khởi kiện đã rõ thì phân tích cho khách hàng về khả năng chiến thắng và những yêu cầu nào có thể được chấp nhận. Nếu khách hàng muốn tiến hành khởi kiện thì phải giúp họ những việc như sau: - Xác định loại việc kiện: để xác định đúng loại việc kiện, luật sư cần xem xét quan hệ lao động và tình tiết sự việc xảy ra giữa các bên như có quan hệ hợp đồng hay không, hợp đồng đã ký kết có phải hợp đồng lao động hay không? Việc xử lý kỉ luật; Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ... yêu cầu cụ thể của đương sự? - Tiếp đó luật sư phải xem xét thời hiệu khởi kiện: Thời hiệu khởi kiện cụ thể đối với từng loại tranh chấp lao động được quy định tại điều 166, 167 Bộ luật lao động, điều 159 khoản 3 BLTTDS nếu thời hiệu không được quy định tại BL lao động. Trong trường hợp đã hết thời hiệu khởi kiện thì luật sư cần phải báo ngay cho đương sự biết và không tiến hành khởi kiện nữa. - Điều kiện khởi kiện: Tuỳ từng trường hợp tranh chấp lao động đòi hỏi phải được hoà giải trước khi khởi kiện ra Toà án. Đối với tranh chấp lao động cá nhân được quy định tại điều 166 Bộ luật lao động; Điều 172 Bộ luật lao động Đối với tranh chấp lao động tập thể. Vì vậy nếu tranh chấp phải tiến hành hoà giải trước thì luật sư tư vấn cho đương sự thực hiện đúng trình tự, thủ tục trước khi khởi kiện ra Toà án. Trong trường hợp tranh chấp không nhất thiết phải qua hoà giải thì luật sư tư vấn cho đương sự cân nhắc về khả năng hoà giải thành và khả năng thắng kiện khi khởi kiện ra Toà án. - Xác định đúng toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động của đương sự. Căn cứ vào quy định của pháp luật và bản chất vụ án mà Luật sư xác định cho đương sự toà án nào có thẩm quyền giải quyết vụ án của đương sự. Điều 33 BLTTDS, Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân tại khoản 1 Điều 31 BLTTDS. Điều 34 quy định Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể tại khoản 2 Điều 31 Bộ luật tố tụng dân sự; những tranh chấp có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần uỷ thác cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài và những vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện nhưng Toà án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết. Về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ được quy định tại Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Đó là những vẫn đề ban đầu mà luật sư có thể tư vấn cho đương sự, nếu tiếp theo mà đương sự có mời luật sư tham gia vụ án với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì luât sư sẽ+ Giúp đương sự chuẩn bị hồ sơ khởi kiện: chuẩn bị hồ sơ khởi kiện. Đó là viết đơn khởi kiện quy định tại Điều 164 BLTTDS, nội dung trong đơn phải ngẵn gọn, rõ ràng. Trong đó trình bày những điểm quan trọng nhất như: nguyên đơn, bị đơn, nội dung tóm tắt của tranh chấp, quá trình giải quyết tranh chấp, yêu cầu của nguyên đơn. Cùng với đơn kiện luật sư hướng dẫn nguyên đơn chuẩn bị các giấy tờ tài liệu để xuất trình trước Toà án để chứng minh cho yêu cầu của mình. 2.2 Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Trong giai đoạn này, công việc chủ yếu của luật sư: hướng dẫn đương sự tham gia tố tụng, nghiên cứu hồ sơ, tham gia hoà giải, chuẩn bị luận cứ bảo vệ. Nếu bảo vệ cho bị đơn: sau khi Toà án thụ lý đơn kiện sẽ gửi thông báo cho bị đơn về việc kiện và yêu cầu bị đơn trả lời thông báo của Toà án. Luật sư phải giúp bị đơn trả lời thông báo của Toà án về việc phản đối, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hoặc đưa ra yêu cầu phản tố, phải chuẩn bị các tài liệu để chứng minh gửi kèm văn bản trả lời Toà án. Luật sư cùng với khách hàng phải thu thập tài liệu, chứng cứ cung cấp cho Toà án. Luật sư có thể chỉ ra cho đương sự những chứng cứ cần thu thập thêm để chứng minh cho yêu cầu của họ, phản bác yêu cầu của bên kia. Trong trường hợp phải thu thập chứng cứ tại cơ quan lao động, Thanh tra lao động, cơ quan quản lý .... thì luật sư cần giúp đương sự hoặc hướng dẫn đương làm đơn yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ nếu đương sự và luật sư không thể tự thu thập được. Khi đã thu thập được, luật sư đánh giá chứng cứ và cung cấp cho Toà án vào thời điểm có lợi nhất. Giúp dương sự biết cách trả lời các câu hoi của toà án, nội dung cần trình bày, tiến hành các thủ tục hành chính để cùng với đương sự có mặtkhi topà án triệu tập đến lấy lời khai. Nếu bảo vệ cho nguyên đơn, Luật sư cần nghiên cứu ngay văn bản trả lời thông báo Toà án của bị đơn và các tài liệu do bị đơn cung cấp. Nếu bảo vệ quyền lợi cho bị đơn, luật sư cần nghiên cứu từ đơn khởi kiện và các tài liệu do nguyên đơn cung cấp. Các việc này sẽ giúp luật sư xác định được yêu cầu, quan điểm, lập luận và căn cứ của bên kia để chuẩn bị việc bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình. Luật sư cần tập trung vào các tài liệu có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án do bên kia cung cấp mà mình chưa được biết được xem xét giá trị chứng minh của nó và xác định xem mình phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ nào, giải trình những gì để phản biện lại phía bên kia. Luật sư cũng cần nghiên cứu các tài liệu do Toà án thu thập như: lời khai của đương sự, người làm chứng, ý kiến của Công đoàn. Khi nghiên cứu hồ sơ, luật sư cần kết hợp với việc đánh giá chứng cứ trên cơ sở đối chiếu các quy định của pháp luật và chứng cứ khác; phải ghi chép có hệ thống các sự việc, tình tiết khách quan đã xảy ra, ghi rõ ngày xác lập tài liệu đó, số bút lục. Để từ đó luật sư sẽ hình thành cho mình một bộ tài liệu riêng bao gồm diễn biến quan hệ lao động, diễn biến tranh chấp lao động, yêu cầu của các bên đương sự, quan điểm của họ và các cá nhân, tổ chức hữu quan về các tình tiết của sự việc. Luật sư lập kế hoạch thu thập thêm chứng cứ, chuẩn bị lập luận để phản bác bên kia, tham gia hoà giải khi thấy cần thiết. 2.3 Tham gia phiên toà sơ thẩm Hết thời hạn chuẩn bị xét xử, toà án ra quyết định mở phiên toà, đến giai đoạn này luật sư cần phải chuẩn bị phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng tại phiên toà, cần phải dự kiến nội dung sẽ hỏi tại phiên toà đối với các đương sự, người làm chứng và chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ cho khách hàng, nghiên cứu các văn bản pháp luật làm căn cứ để giải quyết vụ việc. Bản luận cứ phải ngẵn gọn, rõ ràng và tập trung vào những vấn đề chính có lợi cho khách hàng đồng thời phải có những lập luận sắc đáng phải bác những lập luận của đối phương, luận cứ có thể dài hoặc ngắn tuỳ vào tính chất vụ án nhưng phải có tính thuyết phục. Sau mỗi quan điểm, lập luận phải đưa ra yêu cầu cụ thể của khách hàng. Từ các nội dung đã trình bày, kết luận của bản luận cứ phải nêu được các điều luật cần áp dụng để giải quyết vụ án, đề xuất cụ thể. Tại phiên toà, phần thủ tục bắt đầu phiên toà, luật sư cần chú ý đến trình tự, thủ tục tố tụng, xem xét các vấn đề như có cần phải thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch hay không; có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hay đưa ra tài liệu, chứng cứ mới hay không? có những yêu cầu, đề xuất kịp thời đối với Hội đồng xét xử để bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Trong phần hỏi tại phiên toà, luật sư cần phải nắm được trình tự, thủ tục phần hỏi, theo dõi những nội dung mà người tiến hành tố tụng đã hỏi trước đó để xác định cần hỏi thêm những vấn đề gì. Trên cơ sở dự kiến câu hỏi đã chuẩn bị, những câu hỏi nào đã được người tiến hành tố tụng và luật sư phía bên kia hỏi rồi thì luật sư không hỏi lại nữa mà tập trung vào những vấn đề chưa rõ, cần hỏi thêm có lợi cho khách hàng của mình. Các câu hỏi cần ngắn gọn, dễ trả lời và đúng trọng tâm. Luật sư khi đặt câu hỏi cho thân chủ không nên đặt câu hỏi về những vấn đề hóc búa mà trước đó chưa trao đổi với khách hàng, chỉ nên đặt những câu hỏi đã trao đổi và thống nhất câu trả lời trước đó với khách hàng của mình. Thực tiễn hành nghề của các Luật sư cho thấy Luật sư không nên hỏi thân chủ của mình quá nhiều. Luật sư không được vừa đặt câu hỏi vừa tự mình giải thích cũng như gợi ý trả lời các câu hỏi đó. Luật sư cần ghi chép đầy đủ những tình tiết cần thiết và phải chú ý đến những tình tiết mới, chứng cứ mới được đưa ra để từ đó có những phản ứng kịp thời. Trên cơ sở đó, luật sư sửa đổi, bổ sung bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Điều này rất quan trọng giúp cho Luật sư khi tham gia tranh luận cần trình bày quan điểm trong bản luận cứ trên cơ sở sửa đổi, bổ sung khi xuất hiện các tình tiết mới, chứng cứ mới đã được làm sáng tỏ qua phần hỏi tại phiên toà, phải dùng các văn bản pháp luật làm căn cứ cho những nhận định và kết luận của mình để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho lập luận của luật sư. Luật sư cần gửi ngay bản luận cứ cho Hội đồng xét xử ngay sau khi trình bày xong. Trong quá trình trình bày, Luật sư nên viện dẫn các chứng cứ viết sẵn, đưa ra trước Toà các tài liệu chứng minh cho những gì mình đang nói; kết hợp việc so sánh, phân tích những tình tiết vừa được kiểm tra công khai tại phiên toà, không nên lệ thuộc quá vào bài luận cứ đã viết sẵn. Do vậy để bài phát biểu có gây được sự chú ý và thuyết phục được Hội đồng xét xử hay không là phụ thuộc vào sự linh hoạt của luật sư trước chúng cứ, tình tiết mới được đưa ra xét hỏi tại phiên toà, áp dụng các quy định của pháp luật một cách chính xác và kịp thời, kết hợp với xự chuẩn bị một cách tru đáo, bài bản của bản luận cứ trước đó. Tuy nhiên điều mà luật sư cần tránh là việc dùng những lời lẽ gay gắt hoặc mang tính xúc phạm đương sự hoặc luật sư của họ, tạo không khí căng thẳng trong phiên toà. Luật sư có thể tận dụng tối đa quyền năng của mình trong khuôn khổ pháp luật cho phép, Luật sư có thể nhờ thư ký để giúp đỡ trong phiên toà hoặc sử dụng các sơ đồ, bảng biểu,.... để chứng minh các vấn đề có tính thuyết phục cao hơn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện việc này, luật sư cần phải tuân theo sự điều hành của chủ toạ phiên Toà. Sau khi Toà án tuyên án, vai trò của luật sư chưa hẳn đã kết thúc. Luật sư có thể giúp thân chủ xem biên bản phiên toà, trao đổi những vấn đề cần sửa chữa, bổ sung. Nếu đương sự không đồng ý với bản án của Toà án, luật sư có thể giúp đương sự thực hiện quyền kháng cáo nếu đương sự có đề nghị. 2.4 Kỹ năng tham gia hoà giải Hoà giải trong các vụ án đều là rất cần thiết nó không những đảm bảo quyền lợi cho các đương sự trong vụ án mà còn mang tính nhân văn cao cả, trong vụ án lao động cũng vậy. Việc hoà giải trong vụ án lao động được tiến hành hai giai đoạn, trước phiên toà và tại phiên toà. Thời điểm hoà giải cụ thể do Toà án quyết định. Ngoài ra, trong bất cứ thời điểm nào có khả năng hoà giải Toà án cũng tạo điều kiện cho các đương sự hoà giải. Trong trường hợp hoà giải Luật sư có trách nhiệm tư vấn cho khách hàng thực hiện những công việc cần thiết và hiệu quả nhất. Trước tiên, luật sư cần xác định mức độ tham gia hoà giải: việc tham gia hoà giải ở mức độ nào phụ thuộc vào khả năng thắng kiện của khách hàng, tính phức tạp của vụ án, yêu cầu của đương sự, và sự thiện chí của các bên. Trước phiên hoà giải, luật sư nên tiếp xúc với đương sự phía bên kia để đánh giá mức độ thiện chí tham gia hoà giải của họ, yêu cầu của họ là gì. Nếu phía bên kia có luật sư thì nên gặp gỡ, trao đổi với luật sư của họ để tìm phương hướng thuyết phục và tác động tới các đương sự. Luật sư cần bàn bạc với khách hàng các phương án hoà giải. Luật sư nên chuẩn bị nhiều phương án hoà giải. Tuy nhiên cần xác định yêu cầu đích thực của họ là gì và thứ tự ưu tiên các yêu cầu, những gì có thể nhượng bộ, mức độ nhượng bộ, ... Luật sư cần bố trí thời gian để tham dự phiên hoà giải cùng với khách hàng. Nếu luật sư giữ vai trò chính trong việc thương lượng với bên kia mà có những tình huống chưa dự liệu phát sinh thì cần phải xin phép thẩm phán gặp riêng khách hàng của mình để bàn bạc và tư vấn cho khách hàng đưa ra những quyết định có lợi nhất. Nếu hoà giải thành luật sư cần phải xem lại biên bản hoà giải một cách cẩn thận trước khi khách hàng kí xem biên bản có phản ánh đúng những nội dung đã thoả thuận không và có khả năng thi hành không; sau đó xem nội dung của quyết định đã phản ánh đúng nội dung biên bản chưa. 3. Kỹ năng của luật sư trong một số vụ án lao động điển hình 3.1 Vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động Đơn phương chấm dứt hợp đồng là hành vi của một bên, người lao động hoặc người sử d