Sự Suy Giảm Đất Ở Hải Dương

Sự Suy Giảm Đất Ở Hải Dương

Nêu tình trạng suy giảm tài nguyên rừng và suy giảm đa dạng sinh học ở nước ta. Các biện pháp bảo vệ rừng và bảo vệ đa dạng sinh học?

Nêu tình trạng suy giảm tài nguyên rừng và suy giảm đa dạng sinh học ở nước ta. Các biện pháp bảo vệ rừng và bảo vệ đa dạng sinh học?

ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bộ môn Tôn giáo học https://frs.ussh.vnu.edu.vn/uploads/drs/logo_tgh1.png

TS. Trần Thị Hằng - Bộ môn Tôn giáo học, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN. Bài đã in trong cuốn sách: "Đào tạo Tôn giáo học ở Việt Nam quá trình hình thành và phát triển" của Bộ môn Tôn giáo học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, Nxb. Tôn giáo, 2017, tr.545 - 552.

Dân số Trung Quốc đang giảm dần và lão hóa, làm suy giảm lực lượng lao động và gây áp lực lên chính sách tài khoá, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế của nước này. Dân số suy giảm nhanh Trên thế giới, tỷ lệ sinh đang có xu hướng giảm do phụ nữ chọn có con muộn hoặc thậm chí không sinh con. Theo số liệu của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), tỷ lệ sinh tại các quốc gia này đã giảm từ mức khoảng 3,3 con/phụ nữ vào năm 1960 xuống còn 1,5 con/phụ nữ vào năm 2022. Trong khi đó, tỷ lệ sinh thay thế - mức cần thiết để duy trì dân số mà không cần tới người nhập cư - là 2,1 con/phụ nữ. Tại Trung Quốc, số liệu từ Tổng cục Thống kê nước này cho thấy, dân số đã giảm năm thứ hai liên tiếp vào năm 2023, còn 1,409 tỷ người, ít hơn 2,08 triệu người so với năm trước. Mức giảm dân số Trung Quốc năm 2023 nhiều hơn mức giảm 850.000 người ghi nhận vào năm 2022. Đây là một hệ quả của chính sách một con thiết lập vào năm 1980.

Theo một số dự báo, dân số Trung Quốc đến năm 2050 sẽ giảm còn 1,317 tỷ người và đến năm 2100 sẽ giảm gần một nửa so với hiện nay, còn 732 triệu người. Ông Darren Tay, chuyên gia của công ty phân tích BMI nhận định, dân số trong độ tuổi lao động ở Trung Quốc sẽ giảm rất nhanh trong 1 thập kỷ tới, khiến nền kinh tế nước này mất đi 1% trong tăng trưởng GDP mỗi năm trong 10 năm tới. Theo nhà kinh tế cấp cao Tianchen Xu của tổ chức nghiên cứu The Economist Intelligence Unit (EIU), tỷ lệ sinh ở Trung Quốc đang giảm nhanh hơn so với ở các nước khác trong khu vực như Hàn Quốc và Nhật Bản. Ông Tianchen Xu cho biết, các nền kinh tế lớn châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi dân số già đi nhanh chóng, phần lớn là do mức sống được cải thiện - điều có mối quan hệ nghịch đảo với tỷ lệ sinh sản. Sự mở rộng kinh tế nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây ở các quốc gia phát triển đã mang lại mức thu nhập tăng lên và mở rộng cơ hội giáo dục và nghề nghiệp cho phụ nữ. Những điều kiện được cải thiện này đã dẫn đến chi phí cơ hội lớn hơn cho việc sinh con. Theo các chuyên gia, tại các xã hội phát triển hơn, xu hướng cha mẹ phải đối mặt với chi phí nuôi dạy con cái cao hơn nhiều và điều đó có xu hướng cản trở việc sinh con. Nền kinh tế càng phát triển thì các tác nhân trong nền kinh tế càng phải có nhiều kỹ năng hơn, và do đó, mức đầu tư cần thiết cho mỗi trẻ em cũng sẽ tăng lên. Trung Quốc đã tăng trưởng với tốc độ rất cao trong gần ba thập kỷ qua để trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Trong khi đó, hệ thống phúc lợi của Trung Quốc còn chưa đuổi kịp sự phát triển kinh tế và hỗ trợ của nhà nước cho phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ “còn khá thấp so với tiêu chuẩn quốc tế”.   Bên cạnh đó, giá nhà tăng chóng mặt cũng là một lý do khiến tỷ lệ sinh giảm sút. Ông Tianchen Xu cho biết, khi chính phủ không có khả năng quản lý chi phí nhà ở tăng đáng kể, người dân sẽ gặp khó khăn trong việc mua nhà và trì hoãn việc lập gia đình. Ngoài ra, văn hóa làm việc ở châu Á cũng là một phần nguyên nhân dẫn tới sự suy giảm của tỷ lệ sinh. Tại nhiều nước ở châu Á, có một tư duy đã ăn sâu là ưa chuộng thời gian làm việc kéo dài, nhất là ở Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước khác thuộc khu vực Đông và Đông Nam Á. Những nước này có tổng số giờ làm việc dài nhất thế giới, nên người lao động có ít thời gian hơn cho việc xây dựng gia đình. Giải pháp ứng phó Theo các chuyên gia dân số học, tỷ lệ sinh giảm sẽ gây áp lực lên nền kinh tề và xã hội vì khiến lực lượng lao động giảm theo. Tỷ suất sinh của một quốc gia tại một thời điểm sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng dân số trong độ tuổi lao động ở thời điểm khoảng 2 thập kỷ sau đó. Ngoài ra, tỷ lệ sinh giảm có thể ảnh hưởng tới tỷ lệ người già cần được thế hệ trẻ hơn chăm sóc, từ đó có thể đặt ra gánh nặng quá mức đối với hệ thống y tế và lương hưu của một quốc gia. Cùng với đó, áp lực đối với thế hệ trẻ hơn sẽ tăng lên vì họ vừa phải chăm sóc con nhỏ vừa phải chăm sóc cha mẹ già. Giới chuyên gia cho rằng, sự dịch chuyển nhân khẩu học này tại nhiều nền kinh tế châu Á là một vấn đề mang tính cấu trúc đòi hỏi “nỗ lực toàn diện và quyết liệt của chính phủ” cả về chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Theo ông Tianchen Xu, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc hiện đang nhấn mạnh việc tăng trưởng năng suất lao động. Họ đã nhận thấy sự giảm sút mạnh mẽ trong đóng góp của nhân công vào tăng trưởng GDP. Đây là một sự sụt giảm mà không một dạng can thiệp chính sách ngắn hạn nào có thể giải quyết được và đó là lý do vì sao họ tập trung vào tăng trưởng năng suất. Hiện nay, Trung Quốc đã và đang đầu tư mạnh mẽ vào các giải pháp kỹ thuật số và phát triển các công nghệ như tự động hóa và con chip tiên tiến, với mục tiêu đưa các ngành công nghiệp truyền thống trở nên hiệu quả hơn, từ đó nâng cao năng suất lao động trong nền kinh tế. Trong thời gian tới, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc sẽ nỗ lực cải thiện môi trường lao động, bao gồm các biện pháp như tăng cường thực thi luật lao động và thúc đẩy cân bằng công việc-cuộc sống. Các nhà kinh tế học cũng đồng tình với quan điểm cho rằng Trung Quốc nên tăng tuổi nghỉ hưu ở nước này, có thêm chính sách hoàn thuế cho người nuôi con nhỏ, và đẩy mạnh nỗ lực xây dựng nhà ở giá phải chăng. Theo tính toán của EIU, nếu tuổi nghỉ hưu tăng lên 65 tuổi vào năm 2035 thì mức thâm hụt ngân sách tiền lương hưu có thể giảm 20% và tiền lương hưu ròng mà người hưu trí được nhận có thể tăng 30%, đồng nghĩa giải tỏa áp lực cho các chính phủ và hộ gia đình./.

Thái Dương thủ cung sự nghiệp, tình hình cát thì sự nghiệp to tát, thanh danh thịnh đạt; tình hình hung thì sự nghiệp hống rỗng, khoa trương phù phiếm, không có thực chất.Thái Dương chủ về quý, cho nên thủ cung sự nghiệp là thích hợp. Gặp sao cát thì có thanh danh trong nghề nghiệp, dù gặp sao hung cũng chủ về có sức kêu gọi.Thái Dương thủ cung sự nghiệp, nhập miếu, lại gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, không những sự nghiệp to tát, mà còn có nhiều người dưới quyền. Nhưng nếu không gặp Lộc Tồn, Hóa Lộc, thì chỉ được thanh danh mà không có lọi ích thực tế. Nếu hơi gặp sát tinh, lại chủ về hư danh hư lợi.Thành cách "Dương Lương Xương Lộc" thủ cung sự nghiệp, thì thích hợp công tác nghiên cứu học thuật. Nhưng phải cần thận vì cách cục này có nhiều biến cách. Ví dụ như Văn Xương Hóa Kị, chủ về công tác nghiên cứu có sắc thái khá thấp; thời cổ đại xem trọng sĩ hoạn, khinh thương nhân, cho nên có thể xem đây là tổ hợp sao nghiên cứu thương nghiệp; nếu có các sao sát, hình, thì thường là nghiên cứu sản xuất."Dương Lương Xương Lộc" còn chủ về cạnh tranh, vì vậy thích hợp làm những nghề nghiệp tính cạnh tranh lớn. Do hoàn cảnh xã hội khác nhau, sẽ có nghề nghiệp khác nhau, người nghiên cứu Đẩu Số cần phải chú ý.Thái Dương thường "động", do đó lúc thủ cung sự nghiệp, cũng chủ về cuộc đời ắt sẽ không giữ một nghề, trừ phi nghề nghiệp có tính chất rất chuyên môn, hoặc nghề nghiệp bao phủ diện rộng, tiếp xúc rộng (như công tác xã hội, bảo hiểm, môi giới, v.v...)Thái Dương có Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La đồng độ, tính chất "động" càng nặng. Vì vậy thích hợp làm những nghề nghiệp có tính châít bôn ba bận rộn, nhiều biến động. Nhưng "động tượng" này lại khác với Thiên Cơ; "động" của Thiên Cơ thiếu khí quý phái, cho nên có thể là vận tải, hàng hải, v.v... còn "động" của Thái Dương thì trước sau luôn có một loại khí thế, như ngoại giao, hoặc chủ trì một cơ cẩu quan hệ công cộng hoặc quảng bá.Thái Dương chủ về "tán", cho nên dễ thành trống rỗng, không có thực chất; có thểm Địa Không, Địa Kiếp thì càng đúng. Nhưng cũng có thể lợi dụng tính chất này để sáng tạo "từ chỗ không có gì thành lầu đài", tức là nghề phát minh, sáng tạo, hoặc chỉ dựa vào một ý tưởng đặc biệt để tạo dựng sự nghiệp.Thái Dương có Thiên Khôi, Thiên Việt hội hợp, cổ nhân cho rằng đây là điềm tượng "gần gũi bậc quyền quý". Nói "gần gũi bậc quyền quý", tức là có thể được người ta nâng đỡ. Ở thời hiện đại là được tạo cơ hội, cũng có thể là được cấp trên trọng dụng, đề bạt.Văn Xương, Văn Khúc nhập cung sự nghiệp, chủ về văn học, nghệ thuật, nhưng nên đồng độ với Thái Âm. Nếu Thái Dương đồng cung với Văn Xương, Văn Khúc, tính chất "quý" sẽ nhẹ hơn, chỉ chủ về sự nghiệp có liên quan với văn nghệ, nghệ thuật biểu diễn, hoặc có liên quan với quảng bá, quan hệ công cộng.Thái Dương ưa Tả Phụ, Hữu Bật hội hợp cung sự nghiệp, thì có thể giảm bớt lực hướng ngoại, tức cũng ít bôn ba vất vả hơn.Thái Dương Hóa Lộc, sự nghiệp lấy thanh danh làm chủ yếu, nếu tự kinh doanh làm ăn thì cần chú ý thương hiệu, danh tiếng. Nếu làm việc học thuật, quảng bá, nghệ thuật biểu diễn, thì cần chú ý phát huy nét đặc sắc riêng của mình.Thái Dương Hóa Quyền, thì Cự Môn ắt sẽ Hóa Lộc, ở cung sự nghiệp, là được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) đề bạt, trọng dụng, hoặc sự nghiệp một đời có quan hệ lớn với người ngoại quốc, do đó cần phải nâng cao kiến thức ngoại ngữ để thích ứng với công việc. Nếu hoàn cảnh địa lí của đương cục không cách nào tiếp xúc với người ngoại quốc, thì tốt nhất nên thu nhỏ phạm vi là ở xứ khác, nên học nói theo giọng địa phương cũng có ích cho sự nghiệp.Thái Dương Hóa Khoa, thích hợp với nghề nghiệp có vinh dự. Ví dụ như bác sĩ nổi tiêhg, luật sư nổi tiếng, v.v... đều không ra khỏi phạm vi chuyên nghiệp. Có lúc cũng biểu trưng cho loại nghề nghiệp cần phải có danh dự, hoặc cần phải được người ta tín nhiệm, như môi giới, công chứng, v.v...Thái Dương Hóa Kị, chủ về nghề nghiệp cần phải có sắc thái "bài khó giải phiền", hoặc điều tiếng thị phi (điều tiếng thị phi ở đây không phải là tranh chấp), như dạy học, diễn viên, v.v... đều là "dùng tài ăn nói để kiếm tiền".Thái Dương nhập miếu, sự nghiệp mới chủ về to tát, cũng dễ có thanh danh hiển hách. Nếu lạc hãm, dù có thanh danh cũng không ra khỏi làng quê, hoặc chỉ có tiếng tăm trong giới nghề nghiệp, trong xã hội ít người biết.Thái Dương cũng ưa các tạp diệu Tam Thai, Bát Tọa, Ân Quang, Thiên Quý "triều củng", đều có trợ lực cho sự nghiệp. Cổ nhân xem đây là điềm tượng có nhiều môn sinh đệ tử.Nhưng Thái Dương có Hoa Cái đồng độ, lại hội Địa Không, Địa Kiếp, thường thường là biểu trưng cho triết học, tôn giáo; cỏ Thiên Đức đồng độ, thì thích hợp nghề nghiệp có sắc thái "bài khó giải phiền".Thái Dương ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp Thiên Lương vây chiếu, chủ về danh nặng hơn lợi, rất nên làm công tác chuyên nghiệp, hoặc tạo dụng thương hiệu."Thái Dương, Thiên Lương" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, cũng chủ về danh nặng hơn lợi, cũng nên làm công tác chuyên nghiệp; nhưng sự nghiệp không ổn định bằng ở hai cung Tí hoặc Ngọ; nhất là trường hợp ở cung Dậu thì càng đúng, cần phải ngày đêm bôn ba bận rộn, hoặc không ở yên một nơi, hoặc thường thay đổi hoàn cảnh công tác.Tinh hệ "Thái Dương, Thiên Lương" rất thích hợp làm những nghề nghiệp có tính phục vụ như y dược, bảo hiểm, v.v... Nhưng nếu gặp sát tinh và các tạp diệu Thiên Diêu, Thiên Hình, Đại Hao, Kiếp Sát, thì dễ khởi nghiệp từ nghề nghiệp không chính đáng hoặc nghề tay trái.Hễ tính hệ "Thái Dương, Thiên Lương" thủ cung sự nghiệp, bản thân đã có sắc thái "cô độc và hình khắc", như y dược dùng để trị bệnh, không bệnh thì không cẩn đến thầy thuốc; bảo hiểm dùng để cứu tế, không bị nạn tai thì không cần cứu tế, v.v... Những ý nghĩa như vậy có thể giải thích tính chất của nghề nghiệp.Nhưng "Thái Dương, Thiên Lương" còn có thể suy rộng thành giám sát, quản lí. Từ ý vị "hình pháp" suy ra thành là kỉ luật, điều lệ. Dù nghiên cứu học thuật, cũng cần phải tuân thủ nguyên tắc.Nhưng bất kể như thế nào, "Thái Dương, Thiên Lương" ắt phải có sắc thái phục vụ xã hội; vì vậy dù thành cách cách "Dương Lương Xương Lộc", tính chất nghiên cứu cũng cần phải trực tiếp phục vụ xã hội, không thể đơn thuần giới hạn ở phạm vi lí luận. Trừ phi có Địa Không, Địa Kiếp đồng cung, mới luận đoạn khác."Thái Dương, Thiên Lương" không gặp các sao khoa văn, lại lạc hãm, gặp các sao sát, kị và tạp diệu lại cát hung lẫn lộn, phần nhiều chủ về nghiệp dư hoặc nghề không chính đáng, nhưng vẫn có sắc thái phục vụ. Nói một cách cực đoan, ví dụ như mua bán ma túy cũng thuộc loại nghề có tính chất phục vụ, tuy là phạm pháp."Thái Dương, Thiên Lương" có lúc còn chủ về tôn giáo, hoặc sự vật thần bí; lấy trường hợp gặp Hoa Cái, Địa Không, Địa Kiếp là đúng."Thái Dương, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tình hình cát thì danh lợi song thu, tình hình hung thì chỉ là hư danh hư lợi.Thái Dương ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Thái Âm, là rơi vào "Thiên La, Địa Võng", do đó so với trường hợp ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì thiết thực hơn, sắc thái chuyên nghiệp cũng nặng hơn.Tinh hệ "Thái Dương, Thái Âm" ở cung sự nghiệp, có khuynh hướng thiên về nội vụ. Cho nên thích hợp với công việc hành chính, quản lí tài vụ, kế hoạch."Thái Dương, Thái Âm" thủ cung sự nghiệp, nhập miếu thì sự nghiệp to tát, lạc hãm thì sự nghiệp trống rỗng. Nhưng đều chủ về biến động thay đổi, nhưng về mức độ thì có khác biệt. Nói "biến động thay đổi" ở đây, có lúc là nói nghề nghiệp có tính chất "động".Thông thường, Thái Âm được cát hóa chủ về phú, hoặc nghề nghiệp có liên quan với tài chính, tiền tệ, ngân hàng; Thái Dương cát hóa chủ về quý, nghề nghiệp có tính phục vụ là tốt."Thái Dương, Thái Âm" có Địa Không, Địa Kiếp đồng cung, chủ về nghề nghiệp sáng tạo, nhưng thông thường yếu hơn tinh hệ "Thái Dương, Thiên Lương". Vì dễ thay đổi chủ ý, thành phan ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ.Tổ hợp "Thái Dương, Thái Âm", nếu Thái Âm Hóa Kị, thì thích hợp làm những nghề nghiệp liên quan đến tai nạn và tình cảnh rối rắm khó xử; nếu Thái Âm Hóa Kị, thì chỉ thích hợp với công việc nội vụ, cũng không nên lộ sự sắc xảo, không nên khoe tài."Thái Dương, Thái Âm" thủ cung sự nghiệp, nếu gặp các sao sát, hình, thì về sự nghiệp ắt sẽ có một thời kì bị đồng nghiệp hoặc đồng sự bài xích, chèn ép. Nếu gặp thêm sao kị thì không nên nhập bọn, nếu không sẽ bị gây lụy."Thái Dương, Cự Môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, tính chất cơ bản là điều tiếng, là người ngoại quốc, là ngoại vụ. Ba tính chất này đều trái ngược với tính chất của tổ hợp "Thái Dương, Thái Âm".Thái Dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, thủ cung sự nghiệp, đối cung ắt sẽ là Cự Môn, tính chất cũng tương tự với trường hợp ở hai cung Dần hoặc Thân, nhưng tính chất ngoại vụ nặng hơn; và trường hợp ở cung Tị nặng hơn ở cung Hợi. (chỉ lấy hai cung Dần hoặc Thân để nói thì ở cung Dần nặng hơn ở cung Thân.)Thái Dương Cự Môn được cát hóa, đều chủ về thành danh trong nghề quảng bá, quảng cáo. Cự Môn Hóa Lộc, càng sở trường về tài ăn nói. Nếu đồng thời gặp thêm các sao Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Tam Thai, Bát Tọa, Ân Quang, Thiên Quý, thì thích hợp làm việc trong chính giới, mà còn nên ở ngành ngoại giao."Thái Dương, Cự Môn" thủ cung sự nghiệp, mà Cự Môn Hóa Kị, cách cục cao thì thích hợp với các nghề nghiệp như quan hệ công cộng, pháp luật, quảng bá, nghệ thuật biểu diễn; cách cục hơi yếu thì dạy học, bán hàng, chào hàng, v.v... Nếu lại gặp sát tinh, cổ nhân cho rằng nghề nghiệp có liên quan với tửu sắc.Nếu Thái Dương Hóa Kị, thì thích hợp với nghề nghiệp có sắc thái "bài khó giải phiền", nếu không sẽ dễ chuốc áp lực.Thái Dương Hóa Lộc hay Hóa Quyền, đều chủ về nhờ quan hệ với người ngoại quốc (hay người ở phương xa) mà kiếm được tiền, hoặc dựa vào tài ăn nói, ngôn ngữ, tài nghệ ca xướng để kiếm tiền. Tính chất này, trường hợp ở hai cung Dần hoặc Thân nặng hơn trường hợp ở hai cung Tị hoặc Hợi.Tổ hợp sao "Thái Dương, Cự Môn", nếu Thái Dương lạc hãm, thì không nên có chủ ý cẩu danh, vì vậy những nghề nghiệp có tính chất xuất đầu lộ diện đều không thích hợp. Ở đây không nói về cá nhân, ví dụ như nghề quảng cáo, bản thân nó đã có tính chất xuất đầu lộ diện.Thái Dương lạc hãm mà còn hóa làm sao kị, nếu có cát tinh hội hợp, không có tứ sát, Thiên Hình, Đại Hao, thì lại thích hợp xuất đẩu lộ diện, tuy dễ bị chỉ trích, nhưng sẽ thành danh. Như diễn viên điện ảnh, luật sư, v.v..."Thái Dưoug, Cự Môn" gặp Hóa Kị, không thích hợp làm việc trong chính giới; Cự Môn Hóa Kị, đưoug nhiên chuốc thị phi, nếu Thái Dưoug Hóa Kị thì dễ chuốc oán.Theo Trung Châu Tam Hợp Phái - Nguyễn Anh Vũ biên dịch